Ngoài những tiêu chuẩn về đào tạo, để
trở thành giảng viên, cá nhân còn phải đáp ứng tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp
vụ, như nắm vững kiến thức cơ bản của môn học được phân công giảng dạy và có
kiến thức tổng quát về một số môn học có liên quan trong chuyên ngành đào tạo
được giao đảm nhiệm; Nắm vững mục tiêu, kế hoạch, nội dung, chương trình các
môn học được phân công thuộc chuyên ngành đào tạo; Biên soạn giáo án, tập hợp
các tài liệu tham khảo liên quan của bộ môn, chủ trì hoặc tham gia biên soạn
giáo trình, sách hướng dẫn bài tập, thực hành, thí nghiệm;…
Giảng viên là người có nhiệm vụ giảng
dạy, hướng dẫn và chấm đồ án, khóa luận tốt nghiệp trình độ cao đẳng, đại học;
Tham gia giảng dạy chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ và hướng dẫn,
đánh giá luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nếu có đủ tiêu chuẩn theo quy định.
Bên cạnh đó, giảng viên còn có nhiệm vụ
tham gia xây dựng kế hoạch, nội dung, chương trình đào tạo; tham gia đổi mới
phương pháp giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập, rèn luyện
của sinh viên; Tham gia công tác chủ nhiệm lớp, cố vấn học tập…
Chuẩn hóa chương trình đào tạo về kiến thức
và kỹ năng, đáp ứng linh hoạt nhu cầu nhân lực của thị trường lao động
Chương trình đào tạo bao gồm khung
chương trình và chương trình chi tiết các học phần.
- Đối với khung chương trình
Khi xây dựng, cần thống nhất chung về số
tín chỉ, số học phần đối với các ngành đào tạo; về cấu trúc học phần theo hướng
giảm thời lượng lý thuyết, tăng thời lượng thực hành, thí nghiệm, thực nghiệm,
thực tập, thảo luận, tự học, tự nghiên cứu của sinh viên (SV); về tính liên
thông các học phần thuộc khối ngành, nhóm ngành; về số lượng các học phần tự
chọn…
- Đối với chương trình chi tiết các học
phần
Khi xây dựng, cần dựa trên các nội
dung: thông tin về giảng viên (GV), môn học, mục tiêu môn học; tóm tắt nội dung
môn học; nội dung chi tiết môn học; học liệu; hình thức tổ chức dạy học; các
quy định đối với môn học và các yêu cầu khác của GV; phương pháp kiểm tra, đánh
giá học phần.
Thực tiễn đào tạo ở nhiều trường đại
học hiện nay cho thấy, chương trình đào tạo còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực
hành, dẫn tới chất lượng đào tạo chưa thật sự đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. SV
tốt nghiệp ra trường còn thiếu nhiều kỹ năng nghề nghiệp và kỹ năng “mềm” (như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng
giao tiếp…) và khả năng ngoại ngữ. Vì thế, phải mất một thời gian (có khi 2-3
năm) SV mới thích ứng được với công việc mà mình đảm nhận. Thậm chí có những SV
còn phải đào tạo lại mới sử dụng được.
Để chương trình đào tạo được chuẩn hóa,
khi xây dựng cần tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
- Đảm bảo chất lượng đào tạo: Đảm bảo đào
tạo ở bậc cao về các năng lực nhận thức, năng lực thực hành, năng lực tư duy và
phẩm chất nhân văn cho người học; Đảm bảo tính khoa học, tính cập nhật và tính
thực tiễn của chương trình đào tạo; Phù hợp với yêu cầu của người học và đáp
ứng thị trường nhân lực, yêu cầu của sự phát triển kinh tế-xã hội trong nước và
hội nhập quốc tế…
- Đảm bảo hiệu quả đào tạo: Phải bao gồm
một số học phần có tính kế thừa cao, tránh sự trùng lặp; những học phần để tạo
kiến thức rộng cần được biên soạn có độ nén cao, mang tính tích hợp mạnh để “học một biết mười”; Các học phần SV có
thể tự học nhờ các kiến thức cơ bản, cơ sở đã được trang bị thì giảm thời lượng
lên lớp; Phải bao gồm các học phần bắt buộc, tự chọn có hướng dẫn và tùy ý để
làm mềm hóa quá trình đào tạo và làm tăng hiệu quả đào tạo; Có sự liên thông
giữa các chương trình, các bậc học…
- Đảm bảo hiệu suất đào tạo: Được modul
hóa triệt để thành các học phần để có thể lắp ghép thành các chương trình đào
tạo khác nhau; Có nhiều học phần dùng chung được cho các chương trình đào tạo
khác nhau; Chương trình được chia thành các khối kiến thức giáo dục đại cương,
giáo dục chuyên nghiệp để làm tăng đáng kể hiệu suất đào tạo, nhất là trong các
trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực…
- Đảm bảo tính sư phạm: Phải mang tính khả
thi cao về mặt thời lượng cũng như nội dung; Cần dành thời gian thích đáng cho
các hoạt động chủ động của SV (xemina, hội thảo, thảo luận nhóm, đối thoại,
thực hành, thực tập…); Khối lượng kiến thức đưa vào chương trình phải phù hợp
với thời gian đào tạo, tránh quá tải hoặc ngược lại quá nhàn rỗi; Phải bao gồm
các học phần cơ bản, cơ sở, chuyên ngành của một ngành học để có thể dễ dàng
nâng dần trình độ và năng lực của SV trong quá trình đào tạo sau này…
Đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp
đánh giá theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức, năng lực tự học, tự
nghiên cứu và làm việc nhóm của sinh viên
Đổi
mới phương pháp dạy học
Đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) hiện đang
là một yêu cầu cấp thiết đối với các trường đại học, nhằm đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Sự đổi mới PPDH
cần triển khai theo các định hướng sau đây:
- Phải
tiến hành một cách đồng bộ
PPDH là một yếu tố của quá trình đào tạo
đại học, có mối quan hệ với các yếu tố khác. Do đó muốn đổi mới PPDH, không thể
không đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo, xây dựng và phát triển
đội ngũ GV; cơ sở vật chất thiết bị phục vụ đào tạo; kiểm tra, đánh giá kết quả
đào tạo. Điều rõ ràng là việc đổi mới PPDH của trường đại học chỉ thực hiện
được khi mục tiêu của trường đại học hướng vào việc đào tạo nhân lực tư duy
nhân lực tạo nghiệp; Các học phần có đủ tài liệu, giáo trình được biên soạn
dưới dạng vấn đề, tình huống có vấn đề; Nhà trường có thiết bị dạy học mới như
overhead, projector, multimedia; Việc kiểm tra, đánh giá nhằm vào lĩnh vực nhận
thức bậc cao của SV (áp dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá)…
-
Phải hướng vào việc phát huy tính tích cực, chủ động của SV, tránh lối truyền
thụ một chiều, nhồi nhét kiến thức, tiến tới dạy học phát hiện và giải quyết
vấn đề.
Đây là định hướng cơ bản nhất đối với
việc đổi mới PPDH ở trường đại học, nhằm tạo ra khâu đột phá, từ bỏ thói quen
thụ động, chuyển sang cách học có nghiên cứu, tích cực, chủ động. Theo định
hướng này phải đổi mới cách dạy của của GV và cách học của SV.
-
Về cách dạy của GV
GV phải dạy cho SV năng lực nhận thức, năng
lực tư duy sáng tạo. Muốn thế người GV phải nắm vững năng lực nhận thức, năng
lực tư duy của SV và phải áp dụng các phương pháp khác nhau, tùy theo mục tiêu,
tính chất của học phần, đặc điểm của người học, lớp học…
-
Về cách học của SV
Trong cách học của SV cần chú trọng đến
phương pháp tự học. Có hình thành được phương pháp tự học, SV mới có thể thích
ứng nhanh với phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ (HTTC) và việc học tập
suốt đời, trong bối cảnh khoa học-công nghệ phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh tự
học, cần chú ý đến “cùng học”. Cùng học (theo nhóm, tổ, lớp) mới rèn luyện cho SV khả năng
hợp tác, khả năng thuyết phục và khả năng quản lý.
- Phải có bước đi và mức độ thích hợp cho
việc đổi mới PPDH
Hiện nay, ở nhiều trường đại học còn có
khó khăn về giáo trình, tài liệu học tập của SV, về đội ngũ GV (nhất là đối với
những ngành mới) và về cơ sở vật chất, thiết bi… trong khi quy mô đào tạo không
ngừng tăng lên. Điều đó, đòi hỏi việc đổi mới PPDH ở đại học phải có bước đi
thích hợp, cụ thể là:
-
Cần xác định đổi mới PPDH ở đại học là một quá
trình lâu dài, phức tạp. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, muốn
thay đổi một cách dạy, một cách học (ví dụ chuyển từ dạy học thụ động sang dạy
học tích cực) ở đại học phải mất nhiều năm. Điều đó lưu ý chúng ta không nên
nóng vội nhưng cũng cần phải khẩn trương ở những khâu có thể cải tiến, “đột phá” ngay được.
-
Lựa chọn các học phần, các tổ bộ môn, các khoa
có điều kiện triển khai trước việc đổi mới PPDH để rút kinh nghiệm chung cho
toàn trường.
-
Tiến hành đổi mới PPDH theo các mức độ khác
nhau: Thuyết trình có đàm thoại, thảo luận; Tổ chức dạy học theo cách hướng dẫn
SV học tập là chính; Tổ chức dạy học theo hướng phát hiện và giải quyết vấn đề;
Tổ chức dạy học theo hướng nghiên cứu…
Đổi
mới phương pháp đánh giá
Trong đào tạo theo HTTC, người ta áp dụng
các thang điểm đánh giá kết quả học tập (gồm thang điểm 10, thang điểm chữ A,
B, C, D, F và thang điểm 4). Đây là hệ thống thang điểm rất khoa học, được các trường đại
học hàng đầu trên thế giới áp dụng và đây cũng là tiêu chí để đánh giá quá
trình đào tạo theo HTTC có triệt để không.
Thang điểm 4 rất có lợi cho SV: SV chỉ cần đạt điểm học phần 8.5 (thang
điểm 10) thì khi quy đổi sang thang điểm 4 sẽ là điểm A=4 (điểm cao nhất của
thang điểm 4); SV đạt điểm học phần từ 4.0-4.9 (thang điểm 10) là điểm không
đạt đối với học chế niên chế, nhưng trong HTTC, khi quy đổi sang thang điểm 4
là điểm D=1 lại là điểm đạt; Trong học chế niên chế, SV muốn có kết quả học tập
xếp loại khá thì điểm trung bình chung của tất cả các học phần tối thiểu là 7,
trong khi đào tạo theo HCTC chỉ cần một nửa số tín chỉ tích lũy có điểm học
phần 7.0 và nửa số còn lại có điểm học phần 5.5 là được…
Để áp dụng thang điểm 4 trong đánh giá kết quả học tập của SV, cần thực
hiện tốt một số điều sau đây: Phải làm cho SV hiểu rõ về các thang điểm trong
đào tạo theo HTTC; Thường xuyên cảnh báo đối với SV trong quá trình học tập có
nhiều học phần điểm D (4.0-5.4) nếu không có các học phần cao điểm hơn bù lại
thì SV đó dù tích lũy đủ các học phần của chương trình đào tạo nhưng vẫn không
đủ điều kiện về điểm trung bình chung tích lũy để được công nhận tốt nghiệp (
tối thiểu từ 2.0); Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho SV có cơ hội học cải thiện
điểm và học lại những học phần chưa đạt; Sử dụng thang điểm chữ nhiều mức (B+
và B; C+ và C; D+ và D)…
Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên
đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và chuẩn hóa về trình độ
Đội ngũ cán bộ quản lý, GV đóng vai trò
quan trọng trong ĐBCL đào tạo của trường đại học. Vì thế, các trường đại học
phải xem phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, GV đủ về số lượng, đồng bộ về cơ
cấu và chuẩn hóa về trình độ là nhiệm vụ trung tâm của mình.
Đối
với đội ngũ cán bộ quản lý
Cần phải quy hoạch bổ nhiệm cán bộ quản lý
đáp ứng mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ và phù hợp với điều kiện cụ thể của từng
trường đại học; có quy trình, tiêu chí tuyển dụng, bổ nhiệm rõ ràng, minh bạch;
bồi dưỡng để bổ sung, cập nhật các kiến thức, kỹ năng về khoa học quản lý, quản
trị trường đại học theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế cho
đội ngũ Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng; nâng cao tầm nhìn chiến lược, năng lực
sáng tạo và tính chuyên nghiệp của cán bộ lãnh đạo quản lý trường đại học.
Đối
với đội ngũ giảng viên
Nâng cao ý thức, lòng say mê nghề nghiệp
và tính gương mẫu, mô phạm của người GV; Tạo cơ hội cho GV được nâng cao bằng
cấp (thạc sĩ hoặc tiến sĩ); Chuẩn bị cho GV trong các lĩnh vực như phương pháp
sư phạm, thiết kế và phát triển giảng dạy, phát triển chuyên môn nghiệp vụ,
nâng cao bằng cấp về tâm lý sư phạm, đo lường và thống kê; Giúp GV phát triển
và sử dụng PPDH tương tác và các PPDH tích cực; Tạo điều kiện để GV tiếp cận
với các nguồn tri thức mới, chương trình dạy học hiện hành, các tài liệu dạy
học liên quan trên mạng; Hình thành ở người GV những khả năng cần thiết, đáp
ứng với một môi trường đang thay đổi, đó là: Biết và hiểu cách học khác nhau
của SV; có kiến thức, kỹ năng và quan điểm liên quan đến việc kiểm tra, đánh
giá SV nhằm giúp đỡ họ học tập; Nhạy cảm trước những dấu hiệu của thị trường
bên ngoài và coi trọng nhu cầu của nhà tuyển dụng; Hiểu biết về khách hàng, coi
trọng quan điểm và niềm say mê của những người có liên quan, bao gồm cả SV;
hiểu biết ảnh hưởng của nhân tố văn hóa quốc tế và đa văn hóa đối với chương
trình học…
Tăng cường sự gắn kết giữa nghiên cứu khoa
học và chuyển giao công nghệ với hoạt động đào tạo của nhà trường
Ngày nay, khi khoa học và công nghệ đã và
đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và là nhân tố quyết định năng lực
cạnh tranh của từng quốc gia, từng doanh nghiệp thì kết hợp chặt chẽ giữa công tác đào tạo với
nghiên cứu khoa học là một xu thế tất yếu, một giải pháp tích cực của nền GDĐH
năng động và sáng tạo.
Để đào tạo và nghiên cứu khoa học gắn kết chặt chẽ, hiệu quả, cần thực hiện tốt các yêu cầu
sau đây: Hoàn thiện hệ thống mục tiêu đào tạo của từng chuyên
ngành trong các trường đại học, làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống chương trình
nghiên cứu khoa học theo các chuyên ngành; Tổ chức các hội thảo về công tác đào tạo giữa các
trường đại học với các cơ quan sử dụng nhân lực, lấy ý kiến góp ý của cơ quan
sử dụng về những ưu điểm, hạn chế của SV tốt nghiệp; Ðổi mới nội dung
chương trình và phương pháp đào tạo theo xu hướng giảm số tiết giảng dạy lý
thuyết chung, tăng thời gian xử lý bài tập tình huống, giờ học thực hành, tổ
chức thực tập theo các môn học có báo cáo thu hoạch, chuyên đề nghiên cứu
chuyên sâu theo hướng dẫn của GV bộ môn; Nâng cao hiệu quả thiết thực của việc
thực tập cho SV tại cơ sở thực tế; Liên kết hợp tác và nghiên cứu khoa học với
các cơ quan kinh doanh và cơ quan nghiên cứu; Mở rộng và tăng cường hợp tác
quốc tế trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học; Hiện đại hóa thư viện,
trung tâm thông tin tư liệu, các cơ sở thực hành, phòng thực nghiệm, phòng
nghiên cứu chức năng; Ðầu tư kinh phí thích đáng cho hoạt động nghiên cứu khoa
học để khuyến khích, động viên cán bộ nghiên cứu, GV và SV tích cực tham gia
hoạt động này.
Đảm bảo các điều kiện về học liệu, trang
thiết bị học tập, cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu sử dụng của cán bộ, giảng viên
và sinh viên
Các điều kiện về học liệu, trang thiết bị
học tập, cơ sở vật chất đóng một vai trò quan trọng trong việc ĐBCL đào tạo của
trường đại học.
Vì thế, các điều kiện này phải đáp ứng những yêu cầu sau đây: Thư
viện của trường được nối
mạng, có đầy
đủ sách, giáo trình, tài liệu tham khảo tiếng Việt và tiếng nước ngoài; Có đủ số phòng
học, giảng đường lớn, phòng thực hành, thí nghiệm phục vụ cho giảng dạy, học tập và nghiên cứu
khoa của từng ngành đào tạo; Có đủ trang
thiết bị giảng dạy và
học tập để hỗ
trợ cho các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học, được đảm bảo về chất
lượng và sử dụng có hiệu quả; Cung cấp đầy đủ thiết bị tin học để hỗ trợ hiệu quả
các hoạt động giảng dạy,
học tập, nghiên
cứu khoa học và quản lý; Có đủ diện tích
lớp học theo quy định cho việc giảng dạy và học tập; có ký túc xá
cho người học, đảm bảo đủ diện tích nhà ở và sinh hoạt cho SV nội trú; có
trang thiết bị và sân bãi cho các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể
thao theo quy định; Có quy hoạch tổng thể về sử dụng và phát triển cơ sở vật
chất trong kế hoạch chiến lược của trường…
Đẩy mạnh đổi mới quản lý đào tạo
theo hướng phân cấp cho các phòng ban, trung tâm, khoa
Phân cấp cho các phòng ban, trung tâm,
khoa trong quản lý đào tạo là một yêu cầu cấp thiết, nhất là khi các trường đại
học đã chuyển sang đào tạo theo HTTC. Việc phân cấp này vừa huy động được sự
tham gia, vừa phát huy được vai trò của các phòng ban, trung tâm, khoa trong
quản lý đào tạo. Tuy nhiên, để có thể phân cấp, cần xác định rõ trách nhiệm của
Ban Giám hiệu nhà trường, các phòng ban, trung tâm, các khoa đào tạo, GV trong
quản lý đào tạo. Đồng thời phải xây dựng hệ thống văn bản chặt chẽ, chi tiết về
chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban, trung tâm, khoa trong công tác quản lý
đào tạo; xây dựng phần mềm quản lý đào tạo tiện ích và thân thiện đối với người
sử dụng…
Tóm lại: ĐBCL đào tạo là sứ mạng của
trường đại học. Để ĐBCL đào tạo, các
trường đại học cần thực hiện tốt một số giải pháp nêu trên.